1. EMA: Các biện pháp mới nhằm tránh phơi nhiễm với valproat trong thai kỳ, khuyến cáo từ CMDh
Ngày 23/03/2018, Nhóm điều phối thuốc sử dụng trên người được phê duyệt theo quy trình không tập trung và thừa nhận lẫn nhau (CMDh) thuộc Cơ quan Quản lý Châu Âu (EMA) đã thông qua các khuyến cáo mới của PRAC để tránh việc trẻ phơi nhiễm với valproat trong thai kỳ do nguy cơ gây dị tật thai và các vấn đề về phát triển ở trẻ có mẹ sử dụng valproat trong thai kỳ.
Đối với phụ nữ mang thai và dự định mang thai: chống chỉ định sử dụng valproat và cần thay thế bằng thuốc khác theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa. Tuy nhiên, có một số phụ nữ mắc động kinh không thể thay thế valproat bằng thuốc khác. Những bệnh nhân này cần được tư vấn chuyên khoa phù hợp khi tiếp tục sử dụng valproat trong thời kỳ mang thai.
Đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh sản: chống chỉ định valproat trừ khi thỏa mãn các điều kiện của Chương trình dự phòng mang thai khi sử dụng thuốc mớiđược cập nhật. Chương trình được xây dựng nhằmđảm bảo rằng bệnh nhân nhận thứcđượcđầy những nguy cơ có thể xảy ravà tínhcần thiết của việc tránhthai, bao gồm:
+ Đánh giá khả năng mang thai của mỗi bệnh nhân,
+ Thử thai trước khi bắt đầu và trong khi điều trị khi cần thiết,
+ Tư vấn về nguy cơ điều trị valproat và tínhcần thiết của việc tránhthai hiệu quả trong suốt quá trình điều trị,
+ Bác sĩ chuyên khoa đánh giá việc tiếp tục điều trịcủa bệnh nhânít nhất mỗi nămmột lần,
+ Giới thiệu cho bệnh nhân về biểu mẫu thông tin về nhận thức nguy cơ mới. Trong đó, bác sĩ và bệnh nhân cùng rà soát từng điểm nhằm đảm bảo bác sĩ đã cung cấp cho bệnh nhân các khuyến cáo phù hợp và bệnh nhân cũng đã nắm được các khuyến cáo này.
Ở cả bé gái trướctuổi dậy thì, không nên bắt đầu điều trị bằng valproat trừ khi phương pháp điều trị thay thế không phù hợp.
Naltrexone phóng thích chậm tỏ ra hiệu quả và an toàn như buprenorphine-naloxone uống hàng ngày với mục đích duy trì thiếu ma túy ngắn hạn khi dùng heroin và các chất gây nghiện bất hợp pháp khác. Đây là kết quả nghiên cứu đăng trên Tạp chí JAMA Psychiatry. Phát hiện dựa trên nghiên cứu đa trung tâm, thời gian 12 tuần, bệnh nhân ngoại trú. Đây là nghiên cứu mở tiến hành ở 5 Cơ sở điều trị nghiện tại Na-Uy.
Sau cắt cơn giải độc, mẫu nghiên cứu 159 bệnh nhân nghiện opioid (theo tiêu chuẩn DSM-4) thiết kế ngẫu nhiên hoặc uống hàng ngày buprenorphine-naloxone (4 – 24 mg) hoặc naltrexone hydrochloride phóng thích chậm (380 mg chích tĩnh mạch mỗi 4 tuần) trong thời gian 12 tuần.
Bệnh nhân được phỏng vấn, đánh giá sau liều khởi đầu và sau thời gian 4 tuần, 8 tuần và 12 tuần. Bản câu hỏi “Chỉ số nghiện trầm trọng’ của Châu Âu (Addiction Severity Index) về sức khỏe cơ thể, trạng thái tâm thần, học vấn và hoạt động phạm tội.
Điều trị với naltrexone phóng thích chậm cho kết quả tương tự buprenorphine- naloxone trong giai đoạn duy trì (trung bình số ngày bỏ thuốc là 69.3 so với 63.7 cho mỗi loại tương ứng trong thời gian 84 ngày ). Hơn nữa, không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm điều trị về tỷ lệ test nước tiểu dương tính với opoid hoặc với amphetamine, cocaine, alcohol, cannabis và các loại ma túy dạng chích khác.
Nhóm bệnh nhân dùng naltrexone phóng thích chậm cho biết ít thèm muốn dùng heroin và ít nghĩ về heroin hơn nhóm bệnh nhân dùng buprenorphine –naloxone, và sự hài lòng cũng nhiều hơn.
Bệnh nhân dùng naltrexone phóng thích chậm cho biết nhiều tác dụng ngoại ý hơn bệnh nhân dùng buprenorphine –naloxone (49 [69.0%] so với 25 [34.7%]. Một số tác dụng ngoại ý liên quan do xảy ra hoặc trải qua các triệu chứng của hội chứng cai như buồn nôn, rung mình, run, tiêu chảy và hắt hơi.
Ts Lars Tanum ĐH Oslo Na-Uy kết luận: “Duy trì không dùng heroin với naltrexone phóng thích chậm nên được xem xét như một chọn lựa điều trị như nhau vớ buprenorphine-naloxone trong điều trị lạm dụng opoid”.
3. Thuốc Lurasidone: thuốc chống loạn thần trong điều trị trầm cảm
Latuda (lurasidone), một loại thuốc chống loạn thần (CLT) thế hệ mới có thể đã có hiệu quả điều trị dựa trên kết quả thử nghiệm lâm sàng ở bệnh nhân (BN) trầm cảm nặng thể hỗn hợp.
Trong thử nghiệm lâm sàng pha 3 trong 6 tuần lễ, Latuda cho kết quả cải thiện các triệu chứng trầm cảm một cách rõ ràng và rất an toàn.
Các triệu chứng trầm cảm giảm điểm số ở cả thang lượng giá Mongomery-Asberg Depression Rating Scale (20.5 vs 13.0 ) và Clinical Global Impression, Severity (1.83 vs 1.18) so với placebo. Kết quả điểm số một số triệu chứng giảm ngay trong tuần đầu.
Trầm cảm nặng thể hỗn hợp là tình trạng lâm sàng nặng mà theo DSM-5, là đặc trưng của một số triệu chứng hưng cảm nhẹ nhưng không đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán rối loạn trầm cảm lưỡng cực. Bệnh nhân trầm cảm nặng thể hỗn hợp thường xuất hiện nhiều giai đoạn trầm cảm tái diễn, gia tăng nguy cơ rối loạn lo âu, lạm dụng dược chất gây nghiện và tự sát. Những BN này ít đáp ứng tốt với các loại thuốc chống trầm cảm chuẩn.
Ts Gary Sachs GĐ Chương trình nghiên cứu Rối loạn lưỡng cực BV Đa khoa Massachusetts cho biết : “Nghiên cứu này nhằm vào thực tế lâm sàng, và trầm cảm nặng thể hỗn hợp được biết đến từ lâu và đây là thử nghiệm lâm sàng đầu tiên cho chứng cứ hiệu quả và an toàn”.
Sau 6 tuần hiệu quả tốt, Latuda đạt tới chuẩn hiệu quả 0.8 cho thấy đáng chú ý nhất là khía cạnh dung nạp thuốc (trong đánh giá kết quả nghiên cứu).
Tỷ lệ BN tham gia thử nghiệm bỏ thuốc vào giai đoạn hiệu quả của thuốc rất thấp so với Bn dùng placebo ( 6,4% so với 14,7%). Các tác dụng phụ thường gặp là buồn nôn và chóng mặt. Tỷ lệ tăng cân và rối loạn chuyển hóa cũng thấp so với các thuốc CLT khác.
4. Lyrica CR
FDA đã chấp thuận pregabalin phóng thích kéo dài dạng viên nén CV (Lyrica CR) vào ngày 12/10/2017.
Lyrica CR được chỉ định kiểm soát cơn đau do nguyên nhân thần kinh liên quan đến bệnh thần kinh ngoại biên do đái tháo đường và đau dây thần kinh sau zona. Tuy nhiên, thuốc không nhận được sự chấp thuận cho việc kiểm soát đau xơ cơ.
Những phản ứng có hại thường gặp nhất liên quan đến dùng thuốc Lyrica CR bao gồm: chóng mặt, buồn ngủ, đau đầu, mệt mỏi, phù ngoại biên, buồn nôn, mờ mắt, khô môi và tăng cân.
5. Bảy điều cần lưu ý khi sử dụng thuốc giảm đau
Nhiều người trong số chúng ta đã từng phải sử dụng thuốc giảm đau để làm giảm bớt các cơn đau cùng cực trong cơ thể. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu thuốc giảm đau có thực sự an toàn? Dưới đây là những điều mà bạn cần lưu ý khi sử dụng thuốc giảm đau.
- Thuốc giảm đau rất có hại cho sức khỏe, thậm chí chỉ cần dùng quá liều một chút cũng có thể gây hậu quả chết ngườ
- Không dùng thuốc giảm đau đã hết hạn, dù chỉ vượt quá một ngày, vì chúng chứa một số hóa chất mạnh có thể gây tử vong sau ngày hết hạn.
- Tuyệt đối không uống thuốc giảm đau với rượu vì nó có thể làm trầm trọng thêm các tác dụng phụ của thuốc và ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh trung ương.
- Một trong những tác dụng phụ do thuốc giảm đau gây ra mà nhiều người không biết đó là táo bón. Thuốc giảm đau có thể gây mất nước cơ thể, dẫn đến táo bón.
- Thuốc giảm đau không phải là loại thuốc an toàn để uống thường xuyên, đặc biệt nếu bạn hay gia đình bạn có tiền sử lạm dụng thuốc, điều này sẽ làm tăng nguy cơ phát triển tình trạng phụ thuộc thuốc.
- Uống quá nhiều thuốc giảm đau mỗi ngày có thể dẫn đến vấn đề phụ thuộc thuốc, trong đó người bệnh có thể phát triển tình trạng nghiện thuốc giảm đau.
- Thuốc giảm đau chỉ là giải pháp tạm thời để làm cơn đau biến mất trong thời gian ngắn, nếu lạm dụng quá nhiều có thể gây ra những tác dụng phụ không mong muốn, vì vậy bạn cần có một phương pháp điều trị phù hợp để cơn đau biến mất vĩnh viễn.
6. Lưu ý khi dùng cinnarizin trị rối loạn tiền đình
Để điều trị rối loạn tiền đình, một trong những thuốc thường được sử dụng là cinnarizin. Đây là loại thuốc kháng histamin H1. Thuốc được dùng theo đường uống. Ngoài ra, cinnarizin còn được dùng để phòng say tàu xe (uống trước khi đi tàu, xe).
Lưu ý, cinnarizin có thể gây đau vùng thượng vị, bởi vậy mà thời điểm dùng thuốc nên là sau bữa ăn để giảm kích ứng dạ dày. Thuốc có thể gây ngủ gà (do tác dụng an thần của thuốc), đặc biệt lúc khởi đầu điều trị nên khi uống thuốc người dùng phải tránh làm những công việc đòi hỏi sự tỉnh táo như lái xe, làm việc trên cao, vận hành máy móc… Tránh dùng thuốc dài ngày ở người cao tuổi vì có thể gây tăng hoặc xuất hiện những triệu chứng ngoại tháp (gồm các rối loạn giảm động như co cứng, động tác chậm cháp và các rối loạn tăng động như múa giật, rung giật cơ, chứng nằm ngồi không yên), đôi khi kết hợp với cảm giác trầm cảm trong điều trị kéo dài. Ngoài ra, thuốc có thể gây rối loạn tiêu hóa (thường có tính chất tạm thời), nhức đầu, khô miệng, tăng cân, ra mồ hôi, phản ứng dị ứng và giảm huyết áp (khi dùng liều cao)...
Có thể phòng tình trạng ngủ gà và rối loạn tiêu hóa bằng cách tăng dần liều tới mức tối ưu và ngưng dùng thuốc khi bệnh nặng hơn hoặc xuất hiện những triệu chứng ngoại tháp khi điều trị dài ngày cho người cao tuổi.
Không dùng thuốc cùng với các chất ức chế thần kinh trung ương như rượu, thuốc chống trầm cảm ba vòng (vì có thể làm tăng tác dụng an thần của mỗi thuốc nêu trên hoặc của cinarizin).
Tác giả: Khoa Dược - Vật tư y tế
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn